Vào thời Trung Cổ, phương pháp làm than củi chất lượng cao của Nhật Bản đã được truyền sang Trung Quốc và một số nước trong khu vực. Từ đó, cách làm than củi của người Nhật trở nên nổi tiếng trên thế giới. Hiện nay, ở nhiều vùng nông thôn của nước Nhật, than củi vẫn là chất đốt ưa chuộng của người dân.
Trong ẩm thực Nhật Bản, than củi có một vai trò quan trọng, nó được cho là chất xúc tác cần thiết giúp tôn thêm mùi vị nguyên thủy của thực phẩm.
Thị trấn Minabe thuộc tỉnh Wakayama nổi tiếng là nơi sản xuất than củi chất lượng tốt nhất ở Nhật. Người dân địa phương chỉ chọn những cây Ubame – một giống cây thuộc họ sồi, có tuổi thọ từ 20 – 40 năm để làm nguyên liệu sản xuất than. Loại cây này có ưu điểm là thân cây nhỏ, dù chúng sống đến hàng chục năm. Gỗ ubame lại rất chắc và cứng nên than của nó cháy lâu và duy trì độ nóng ổn định trong thời gian dài.
Lò đốt than từ gỗ ubame phải được xây dựng bằng đá tự nhiên trên nền đất đỏ đặc trưng của địa phương. Gỗ ubame sau khi chặt ra thành những đoạn ngắn được đưa vào lò đốt trong suốt 3 ngày. Trong thời gian này, cửa lò được bịt kín bằng gạch và đất sét, chỉ chừa vài lỗ nhỏ để thoát hơi.
Đến hết ngày thứ 3, người thợ đốt than phá một phần đất sét ở cửa lò để tạo khoảng trống giúp không khí tràn vào bên trong. Lúc này, nhiệt độ trong lò cần được nâng lên để gỗ cháy gần như hoàn toàn, đồng thời, nhiệt cũng sẽ làm bốc hơi hết lượng nước còn tồn đọng trong than. Đây là công đoạn rất quan trọng nên chỉ những người thợ đốt than nhiều năm kinh nghiệm mới được đảm trách. Nếu nhiệt độ trong lò quá thấp, các thanh gỗ sẽ không cháy đến độ cần thiết dẫn đến tình trạng than kém chất lượng, nếu nhiệt độ quá cao, than sẽ cháy thành tro. Người thợ dựa vào sự thay đổi màu sắc của ngọn lửa trong lò để điều chỉnh nhiệt độ.
Đến lúc dỡ lò đốt than, người thợ sẽ mở hoàn toàn cửa lò để nhiệt độ bên trong thoát ra ngoài. Lúc này, nhiệt độ trong lò lên đến 1.200 độ C, các thanh gỗ đã cháy thành than và than có màu vàng cam. Sức nóng khủng khiếp thoát ra từ lò đốt buộc người thợ phải đứng cách cửa lò 4 mét trong lúc cào than ra ngoài. Đây là một công việc rất vất vả mà không phải ai cũng có thể chịu đựng.
Ngay sau khi lấy ra khỏi lò đốt, những thanh than đỏ rực được nhanh chóng vùi trong đất để làm nguội. Mẻ than xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, mẻ than được cho là thành công và than có phẩm chất tốt phải đáp ứng các tiêu chí đặc trưng, trong đó, nổi bật nhất là mặt cắt của thanh than phải có màu đen bóng, khi gõ hai thanh than vào nhau, chúng phải phát ra âm thanh leng keng lảnh lót tựa như tiếng kim loại va vào nhau.
Than củi ubame xuất xứ từ thị trấn Minabe được người Nhật gọi là Binchotan. Bên cạnh đặc tính cứng và lâu tàn, than binchotan còn tỏa ra mùi đồ nướng nên rất được giới đầu bếp ưa chuộng.
Nước Nhật có 70% diện tích là rừng bao phủ nên từ xa xưa người dân đã biết đốt gỗ lấy than làm nhiên liệu. Than xuất hiện từ thời Jomon, cách đây khoảng 4.000 năm.
Đến thời Nara, thế kỷ thứ VIII, Thiên hoàng Shomu đã ra lệnh xây dựng một công trình Phật giáo đồ sộ dùng than củi làm nguồn nhiên liệu chủ yếu. Đó là bức tượng Đại Phật bằng đồng được thờ tại chùa Todaiji. Tượng cao 14,7 mét, được đánh giá là bức tượng Phật bằng kim loại lớn nhất thế giới vào thời điểm đó.
Năm 2006, các nhà nghiên cứu đã tái hiện phương pháp đúc tượng Đại Phật bằng cách tạo ra một bức tượng mới có kích thước bằng 1/30 tượng thật. Họ cho đồng và than vào một chiếc lò, đốt cháy than để nấu đồng. Sức nóng của than làm đồng tan chảy. Người xưa có thể đã sử dụng cách nấu đồng đơn giản này để đúc tượng Phật khổng lồ.
Đến thời Heian, giới quý tộc và tầng lớp thượng lưu bắt đầu sử dụng than củi làm nhiên liệu sưởi ấm. Chất lượng than lúc này được đòi hỏi rất cao, do nhà của người Nhật chủ yếu bằng gỗ nên than dùng sưởi ấm phải là loại than duy trì nhiệt lâu, không sinh khói và tia lửa dễ gây cháy. Vì thế, giá thành của mặt hàng này rất cao, giới bình dân không có khả năng tiếp cận.
Đến thời Chiến quốc Sengoku, lãnh chúa các địa phương phát động chiến tranh giành quyền lực và lãnh thổ, than củi cũng góp phần quan trọng trong cuộc nội chiến này. Than được sử dụng làm nhiên liệu để luyện kim trong quá trình rèn vũ khí và áo giáp của chiến binh.
Thép Hagane, nguyên liệu rèn kiếm Nhật, được tạo ra từ phương pháp luyện thép độc đáo Tatarafuki có lịch sử hơn 1.000 năm.
Trước tiên, người ta cho cát, sắt cùng với than củi vào lò nung lộ thiên Tatara để luyện thép. Sức nóng khủng khiếp của than làm cát sắt tan chảy và đây sẽ là nguồn nguyên liệu dùng để rèn kiếm khi nó cứng lại thành một khối kim loại bền chắc gọi là thép hagane. Để có được 1 tấn thép nguyên liệu hagane, người ta phải cần đến 13 tấn cát sắt và 13 tấn than củi.
Hagane là loại thép có chất lượng rất tốt với 99% thành phần là thép nguyên chất. Thép hagane đã tạo nên danh tiếng cho thanh kiếm Nhật Bản.
Đến thời Edo, thế kỷ XVII, than củi bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong dân chúng để nấu nướng và sưởi ấm. Lò đốt than củi tiện dụng Hibachi là một trong những vật dụng gia đình phổ biến lúc bấy giờ. Chẳng hạn, người dân Edo sử dụng lò đốt than di động hanami hibachi để hâm nóng rượu sake trong các chuyến dã ngoại hay sử dụng lò than Naga hibachi cho các cửa hàng ăn hoặc gia đình đông người. Ở dưới và bên hông của bếp lò có nhiều ngăn kéo. Người ta để nước trà, đồ uống hoặc thức ăn vào các ngăn này để tận dụng sức nóng của than giữ ấm thực phẩm.
Từng là hàng hóa cao cấp của giới thượng lưu, rồi trở thành nhiên liệu phổ thông trong dân chúng, than củi đã góp phần tạo sự thoải mái, tiện lợi cho cuộc sống của người Nhật.
Nhật Bản có 3 loại than thông dụng: than đen Kurozumi – loại than mềm và vẫn còn giữ lớp vỏ cây; than binchotan hay còn gọi là than trắng Shirozumi, vì trên các thanh than có những đốm trắng rải rác và loại thứ 3 là than củi tre Takezumi.
Ở Nhật, than củi không chỉ dùng để đốt mà còn được sử dụng để hút ẩm, khử mùi và khử độc.
Hình ảnh phân tích trên máy tính có thể cho chúng ta thấy, trong than củi có rất nhiều lỗ nhỏ, bề mặt của các lỗ này cộng lại chiếm diện tích từ 200 – 400 mét vuông/gram than củi. Đây chính là yếu tố tạo nên tính năng điều hòa không khí đặc biệt của than củi. Những cái lỗ nhỏ li ti giúp than hút hơi ẩm từ không khí trong ngôi nhà khi trời lạnh và phả hơi ẩm ra làm mát khi thời tiết nóng. Chính vì vậy, người ta xem than củi như là một chiếc máy điều hòa độ ẩm lý tưởng.
Than củi còn có tác dụng bảo quản rau củ quả và trái cây. Người ta cho một ít than củi vào ngăn mát dùng để lưu trữ rau quả của tủ lạnh, than sẽ giúp rau quả giữ độ tươi lâu hơn.
Than củi cũng đóng một vai trò quan trọng trong canh tác nông nghiệp. Than củi phế thải được nghiền nát trộn chung với đất làm phân bón. Loại phân sinh học này thường được rải lót trên các luống đất trước khi trồng hoa màu lên đó.
Người Nhật dùng cả than củi để tăng độ ngon và dẻo của hạt cơm. Khi nấu cơm, người ta cho một thỏi than củi vào nồi, vì có tác dụng khử mùi và hút nước nên than củi sẽ giúp nồi cơm khi chín có mùi dễ chịu và hạt cơm khô ráo.
Than củi không chỉ được dùng để hút ẩm và bảo quản thực phẩm mà người Nhật còn nghĩ ra cách chiết xuất chất hóa học phát sinh từ quá trình đốt than. Sản phẩm có tên Mokusaku-eki, hay còn được gọi là giấm gỗ, là chất lỏng có màu nâu nhạt, chảy xuống từ ống khói của các lò đốt than. Giấm gỗ được người Nhật sử dụng để cải tạo đất và làm thuốc diệt côn trùng. Ngoài ra, người Nhật còn sử dụng dầu tắm có thành phần là giấm gỗ pha loãng với nước để tắm vào mùa hè trị các bệnh mẩn ngứa, người nông dân thường pha giấm gỗ với nồng độ đậm đặc để phun trên rau màu diệt sâu bọ phá hoại.
Với trà đạo, người Nhật đã dùng loại than làm từ gỗ sồi ở phía Bắc tỉnh Osaka để phục vụ cho việc pha trà. Than có hình dáng khá đẹp, trong lõi than xuất hiện nhiều vết nứt đều nhau trông giống như hoa cúc nên nó được gọi là than hoa cúc.
Ngày nay, bên cạnh các nguồn năng lượng phổ thông như điện, gas và xăng dầu người dân Nhật Bản vẫn trung thành với than củi. Than củi đã tạo nên nét độc đáo mang màu sắc văn hóa của đất nước này.
Theo THVL